PHỤ LỤC: SỰ KHÁC NHAU VỀ CÁCH CẦM BÚT CỦA NGHỆ THUẬT THƯ PHÁP VIỆT VÀ THƯ PHÁP HÁN TỰ


Những nét khác biệt trong việc cầm bút của nghệ thuật Thư pháp Việt và Thư pháp Hán tự.
Hướng cho người nhìn một nét mới khi biết và định hình cho nghệ thuật Thư pháp Việt có những cách cầm bút đặc trưng.
I.  CÁCH CẦM BÚT:

1.      Cách cầm bút của nghệ thuật Thư pháp Trung Hoa và nguồn gốc của bút lông một sản phẩm của văn hoá phương Đông::
Nguồn gốc bút lông:
Bút lông là sản phẩm văn hoá hình thành sau một giai đoạn dài văn hoá chữ viết trung hoa cổ chỉ viết trên xương thú, mai rùa, da, vải chỉ viết bằng cây, bút sắt chấm mực và khắc. Thời nàh Tần người ta xem tướng Mông Điền là người sáng tạo ra bút lông dù rằng thời nhà Ân Thương đã có các loại văn bản dùng đến son và bút.. Hình thành và phát triển từ sự thông nhất ngôn ngữ và văn tự, bút lông càng phát huy hơn nữa tính thực tiễn và đa dụng của nó và truyền bá đi khắp các quốc gia phương Đông có chung văn hoá Hán tự.

-         Cách cầm bút theo một nguyên tắc đã định hình từ ngàn năm nay của nghệ thuật Thư pháp Trung Hoa đó là hướng cầm bút theo phong cách ngũ chỉ pháp, ứng dụng năm ngón tay hình thành thế cầm bút vững và thẳng đứng.
-         Các cách cầm bút có các hướng:

*Thẳng đứng từ trên thân bút xuống đầu bút.

*Nghiêng góc từ trong ra ngoài hướng đầu bút về phía trước, ngón tay út tỳ nhẹ làm điểm tựa giữ cân bằng khi cầm bút.
*Cách cầm bút từ thân bút gần như tận dụng các phần trên thân bút để ứng dụng cho các phong cách chữ viết khác nhau trong hệ thống chữ hán.
2.      Cách cầm bút của nghệ thuật Thư pháp Việt Nam và sự ứng dụng trong phong cách viết chữ:
Cách cầm bút của nghệ thuật Thư pháp Việt Nam hiện nay có sự phân định ở 2 dòng, Thư pháp Hán tự và Thư pháp Việt hiện đại, nhưng riêng trong chia sẻ sẽ là nghệ thuật Thư pháp Việt hiện đại với những sự ứng dụng mới, đang định hình và có hướng phát triển hình thành một nét văn hoá Việt Nam rất riêng biệt.

Các cách cầm bút mà chúng ta có thể dễ thực hành.
Vì có một hệ tư duy văn hoá chữ hán từ lâu đời nên việc cầm bút lông viết chữ đã là một tiềm thức trong suy nghĩ của người Việt. Đến hôm nay sự trở lại của việc cầm bút lông hình thành một nét riêng rất Việt Nam giống như cha ông chúng ta từng định hình một nét riêng về chữ Nôm.
Hệ thống Việt ngữ hiện nay là một sản phẩm rất thú vị từ tư duy văn hoá Việt Nam và hệ thông latinh ký tự, hình thành một nét mới khi thực hiện các sáng tác về chữ Việt.
Qua cách viết của hệ thông la tinh háo theo hướng nghiêng gốc so với mặt phẳng định hình các hệ thống ký tự nghiêng và đa dạng hơn là các hệ thống ký tự tròn,… Từ đó khi ứng dụng bút lôn vào hệ thống ký tự latinh này là một sự thay đổi rất lạ. Từ sự dày mỏng, chất liệu mực, chất liệu giấy, cách trình bày. Đó chính là sự định hình khá mới lạ của nghệ thuật Thư pháp Việt..
Vì thế khi cầm bút lông theo đúng phương pháp nhưng viết Thư pháp Việt sẽ là một hương linh hoạt hình thành các con chữ theo hệ thống hình học về ký tự đã được học từ văn hoá cơ sở.

II.               HỆ THÔNG VĂN TỰ VÀ CÁCH VIẾT:



Thư pháp Việt Nam

Thư pháp Trung Hoa

Hệ thống văn tự
Chữ Việt
Chữ Hán

Dụng cụ thực hiện
Bút bi, bút chì, bút lông

Bút lông, bút bi
Tư duy
Linh hoạt và ứng dụng

Cố định và bền vững
Cách trình bày
Trên các loại giấy thấm nước và ít thấm nước.

Trên các loại giấy thấm nước.
Hướng phát triển
Đang định hình
Lâu đời

PHỤ LỤC: ĐẶC ĐIỂM RIÊNG TRONG NGHỆ THUẬT THƯ PHÁP VIỆT


- Tính linh hoạt: Sự linh hoạt là một phần trong những đặc điểm rất thú vị trong Thư Pháp chữ Việt, sự chuyên chú trong sáng tác cũng là đặc tính của người Việt mặc dù vẫn không bỏ sự phóng khoáng  trong sáng tác. Dù tính linh hoạt có thể là điều tất yếu trong các loại hình nghệ thuật nhưng riêng trong bộ môn Thư Pháp Việt tính linh hoạt rất cao. “nhà Thư Pháp nhấn mạnh ở mỗi con chữ làm tăng nhịp điệu cảm  xúc nhưng vẫn tuân thủ tính hài hòa trong tác phẩm.”

- Tính biểu cảm, trữ tình: Đây là một đặc điểm rất tiêu biểu cho các loại hình nghệ thuật  và văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa nông nghiệp nói chung. Với Thư Pháp chữ Việt tính biểu cảm và nét trữ tình thể hiện qua các câu chữ luôn là những nội dung quen thuộc và có tính  trọng tình với các nét chữ bay bướm, nhẹ nhàng. Rất ít khi thấy các tác phẩm Thư Pháp chữ Việt có tính mạnh mẽ  như Trung Hoa, và sặc sỡ như phương Tây mà luôn luôn sáng tạo độc đáo nhưng lại hiền hòa nhẹ nhàng.

- Tính hài hòa: Tính hài hòa là đặc điểm rất nổi bật trong Thư Pháp chữ Việt Nam nói riêng và trong văn hóa Việt Nam nói chung. Một phần cũng chính do sự hài hòa trong mọi tác phẩm ấy mà tác phẩm Thư Pháp chữ Việt luôn luôn lạ mắt trong từng sáng tạo.

- Tính tổng hợp: Giao thoa trong văn hóa Đông Tây thể hiện rõ nhất thông qua bộ môn Thư Pháp chữ Việt (Bút lông- sản phẩm của văn hóa phương Đông và chữ Latinh-sản phẩm của văn hóa phương Đông). Sáng tác một phần cũng có sự ảnh hưởng đó.

- Tính hướng thượng: Sáng tạo có những tính chất hài hòa làm con chữ có tính chất lạ (hay hoài cổ) trong tác phẩm nghệ thuật, tính tư duy và hàm ý trong sách tác làm tác phẩm có định hướng trong suy nghĩ của người sáng tác lẫn người xem nhằm đạt đến một chân thiện mỹ cho tác phẩm..

* Những tính chất tất yếu trên cũng nhằm hình thành những sáng tạo, lý luận chuyên môn, phân định thể loại dựa trên đặc tính mỹ cảm chính là  mục tiêu tồn tại, chuyển biến thành loại hình nghệ thuật Thư pháp Việt.

CHƯƠNG 3: PHẦN THỰC HÀNH NGHỆ THUẬT VIẾT THƯ PHÁP VIỆT (THỰC HÀNH ĐIỀU KHIỂN BÚT VÀ LÀM QUEN VỚI BÚT)


c. Nét mũi bút: Cách cầm và thực hiện đường nét bằng mũi bút, kéo các nét mảnh và song song nhằm cho tay quen với bút khi thực hành. Sau đó thực hiện các đường nét vòng tròn để linh hoạt hơn hướng đi của bút. Cách thực hành này cho chúng ta hướng làm quen với bút lông và 3 giai đoạn khởi bút, hành bút cũng như thu bút.
Nét mủi bút hướng dọc và ngang
- Nét dọc và nét ngang nhằm giúp cho người viết quen dần với cách cầm và sử dụng bút, nét ngang khi thực hiện giúp chúng ta cân chỉnh tốt các đường nét của con chữ sau này hoàn hảo và cân đối hơn. Nhưng khi thực hành nét ngang cần viết chậm rãi, không quá nhanh khi ấy nét bút sẽ được điều khiển tốt hơn và với nét dọc cũng vậy.
- Khi thực hiện các nét bút này người thực hiện sẽ thay đổi dễ dàng từ hướng mũi bút (nét nhỏ) sang bụng bút (nét lớn). Các đường nét thay đổi theo sự thuần thục các đường nét quen thuộc như nét mũi bút hướng đứng từ trên xuống và từ trái qua phải, lúc ấy chúng ta chuyển sang luyện nét lớn bằng bụng bút.
- Quen dần với đường nét chúng ta sẽ có các thuật ngữ quen thuộc như khởi bút là bắt đầu cho nét bút khi vừa chuẩn bị đặt bút xuống, hành bút là giai đoạn đi bút thực hiện các nét ngang, dọc, nghiêng trái, nghiêng phải. Cuổi cùng là giai đoạn thu bút chính là lúc nhấc bút lên khi đến khoảng cách mà ta tự giới hạn.
- Sau đó chúng ta thực hiện các nét nghiêng trái sang phải và phải sang trái. Từ từ thay đổi tốc độ nhanh và chậm trong mỗi nét bút. Khi quen dần mỗi lần cầm bút chúng ta sẽ nhận ra cách viết từ cánh tay (các khoảng cách lớn, rộng) sau đó chuyển dần đến cổ tay trong các khoảng cách gần hơn.
 Nét vòng xoắn ốc
- Nét bút này giúp chúng ta hài hòa giữa các nét cung tròn sau này khi thực hành và hoàn thiện các nét vòng khi nhuần nhuyễn cách cầm cọ và thực hiện được nét dọc và ngang.
- Thực hành nét bút này như sau: Mũi bút đặt trọng tâm và đi nét từ hướng trái cong dần sang phải và cứ như thế thực hành liên tiếp cho đến khi chúng ta thấy ổn định và tự dừng bút bằng cách nhấc bút lên. Các nét thực hành này có thể thay đổi từ nét mũi bút sáng nét bụng bút để chúng ta quen dần các nét dầy và mỏng.
- Nét xoắn ốc cần liền mạch không đứt đoạn và thực hiện chậm rãi.
- Quen dần với các nét chúng ta sẽ có các thuật ngữ quen thuộc để dễ dàng thực hành, bắt đầu là khởi bút giai đoạn bắt đầu đặt nét mũi bút hay bụng bút xuống trang giấy, sau đó định hình nét cong và đi bút giai đoạn này gọi là hành bút và khi đến khoảng cách mà ta tự giới hạn rồi nhấc bút lên ta gọi là thu bút.
- Nét xoắn giúp cổ tay và cánh tay của chúng ta linh hoạt hơn, uyển chuyển hơn nếu thực hành các nét, ký tự hay con chữ có nhiều nét cung tròn. Thường ít người quan tâm đến các nét hướng cong và chỉ thực hành căn bản các nét cứng như thẳng đứng, hướng ngang, hướng nghiêng, vì vậy các ký tự không thật sự hoàn chính khi thiếu các nét cung tròn. Vì vậy các nét căn bản này chính là yếu tố quan trọng cho chúng ta khi thực hiện các đường nét định hình ráp nối ký tự sau này.

CHƯƠNG 3: PHẦN THỰC HÀNH NGHỆ THUẬT VIẾT THƯ PHÁP VIỆT (3.2 CÁCH CẦM VÀ TƯ THẾ VIẾT)


3.2 Cách cầm và tư thế viết: Cầm bút lông có hướng thẳng đứng giúp chúng ta điều khiển cọ có tư thế và dễ dàng điều khiển các phần của ngòi bút lông.
a. Tính năng bút lông:
* Bút lông chia làm 2 phần: đầu bút và cán bút.
+ Phần cán bút chia làm 3 phần : phần cán bút, phần thân bút và phần cận đầu bút. Tùy theo thói quen cầm bút sắt mà mọi người có cách cầm bút và hướng sử dụng phần quen thuộc trên cán bút.
+ Đầu bút chia làm 2 phần: Ngọn bút và bụng bút (có khi người ta còn sử dụng cả thân bút). Khi thực hành viết chữ, nét chữ nhỏ sẽ do phần ngọn bút thực hiện nhưng khi viết chữ to, nét mạnh mẽ, đậm nét thì sử dụng phần bụng bút, có khi chúng ta còn sử dụng phần thân bút cho các nét thô đậm nét.
* Cách chọn bút dành cho Thư pháp:
+ Bút lông ngắn:
 Chúng ta nhìn thân bút thẳng, không tì vết hay cong vẹo, vì những khuyết điểm ấy sẽ ảnh hưởng đến cách cầm và điều khiển bút.
Đầu bút nhìn gọn và có độ dài khoảng 1/8 thân bút.
Đầu bút tròn, thon, gọn, không méo mó.
Mủi bút nhọn không có những sợi lông dư (do buộc phần gốc bút chưa chắc nên có những sợi lông không đồng đều.)
* Cách chọn bút lông dài:
Chúng ta nhìn thân bút thẳng, không tì vết hay cong vẹo, vì những khuyết điểm ấy sẽ ảnh hưởng đến cách cầm và điều khiển bút.
Đầu bút nhìn gọn và có độ dài bằng 1/4, 1/5 thân bút.
Đầu bút tròn, thon, gọn, không méo mó.
Mũi bút nhọn không có những sợi lông dư (do buộc phần gốc bút chưa chắc nên có những sợi lông không đồng đều.)
Áp dụng loại bút lông dài khi viết thư pháp Việt rất khó, do tính đàn hồi và lượng mực được lưu bên trong bụng bút khác hẳn bút lông ngắn (bút lông dài lượng mực nhiều hơn bút lông ngắn), cần hoàn thiện các đường nét căn bản bằng bút lông ngắn rồi mới sử dụng bút lông dài.
b. Cách cầm bút: Trong Thư Pháp nhất là Thư Pháp chữ Việt hiện nay có 2 cách cầm bút căn bản, đó là cầm bút dạng tì bút và không bút.
* Tì bút: Cách cầm này có ngón cái chịu lực, các ngón trỏ ôm gần cận đầu bút và riêng ngón út thì thả lỏng để tì bút xuống mặt phẳng, hướng bút hơi nghiêng. Cách cầm bút này có những ưu điểm là khi chúng ta viết các câu chữ  nhỏ và trung thì rất thuận lợi và dễ dàng nắn nót, thế nhưng khi viết dạng đại tự thì tì tay sẽ làm giới hạn khi chúng ta phóng bút.
   
Không tì bút: Cách cầm này có ngón cái cũng chịu lực nhưng các ngón tay còn lại chụm thẳng hàng và hướng bút thẳng đứng để tay không chạm vào mặt phẳng của bàn hoặc nền. Cách cầm này có ưu điểm rất tốt khi thực hiện đại tự, riêng khi viết các câu chữ nhỏ cần có thời gian rèn luyện lâu dài với phương pháp này mới có thể thực hiện hoàn chỉnh các con chữ Thư Pháp.
 

Tư thế viết: Có nhiều tư thế viết tùy theo hoàn cảnh và loại hình cần thực hiện.
* Ba tư thế chính:
+ Sử dụng bàn (ngồi viết)
+ Sử dụng bàn không có ghế (đứng viết)
+ Sử dụng bàn thấp (ngồi xếp bằng khi viết)
Ngoài ra còn có các tư thế khác như: bò nghiên, quỳ gối, đừng viết lên vách…

CHƯƠNG 3: PHẦN THỰC HÀNH NGHỆ THUẬT VIẾT THƯ PHÁP VIỆT (3.1 THƯ CỤ)


Chương 3: PHẦN THỰC HÀNH NGHỆ THUẬT VIẾT THƯ PHÁP VIỆT
3.1 Thư cụ: là những dụng cụ được dùng trong việc thực hành và sáng tác nghệ thuật thư pháp, trong giới thư pháp người ta thường gọi chung là “văn  phòng tứ bảo” nhằm giới thiệu các dụng cụ đặc trưng cho loại hình nghệ thuật này. Sau đây là những dụng cụ đặc trưng với các định nghĩa, khái niệm và công dụng của chúng.
BÚT (Dụng cụ viết Thư Pháp)
Định nghĩa: Bút là dụng cụ sáng tạo trực tiếp con chữ trong Thư Pháp chữ Việt.
Bút lông tàu là một trong những dụng cụ cổ điển đã thực hiện con chữ Thư Pháp Hán, Nhật, Hàn Quốc, Việt Nam và các nước có chung nguồn gốc văn tự chữ Hán từ rất lâu đời.
Hiện nay vật dụng viết thư pháp lại không giới hạn là cọ lông mà còn có thể là cọ bản đẹp vẽ tranh sơn dầu, bút lược, bút tre… nhằm phát huy hơn nữa tính ứng dụng và sáng tạo trong một tác phẩm thư pháp.

 
Cách bảo quản bút:
Làm bút ẩm là việc cần thiết trước khi viết chữ, không nên nhúng ngay bút vào mực để viết . Đầu tiên dùng nước sạch ngâm ẩm ngòi bút, sau đó nhấc bút ra, không nên ngâm lâu vì sẽ làm tan keo ở gốc ngòi bút . Sau đó treo ngược bút lên cho đến khi ngòi bút trở về trạng thái ban đầu, mất khoảng 10 phút . Phải treo bút ở nơi khô ráo, nếu dùng bút khô mà viết chữ ngay, lông bút sẽ kết dính lại với nhau, dễ đứt gấy, mất tính đàn hồi .
NGHIÊN MỰC (Dụng cụ đựng mực)
Định nghĩa: Nghiên mực là dụng cụ đựng mực với cấu trúc lõm dùng để đựng mực (ngày xưa dùng để mài mực thì mặt phẳng lõm hơi nhám mịn để dễ dàng mài mực tốt).
Ra đời từ rất lâu và do nhu cầu thẩm mỹ của tác giả dẫn đến những sáng tạo rất độc đáo cho nghiên mực. Từ những chiếc nghiên làm ngọc, bằng đá, bằng các loại gốm ,sứ,… đã phổ biến hơn nữa cách dùng nghiên dành cho thư pháp.
Nghiên mực là vật dụng khá tinh vi của giới Thư Pháp với các cấu trúc lõm khác nhau, nhưng với phong trào Thư Pháp hiện đại dần thay thế nghiên mực bằng các dụng cụ khác có khả năng đựng mực như chén mực, ly mực, dĩa mực...

 
GIẤY THƯ PHÁP(Vật liệu trình bày)
Định nghĩa: Giấy Thư Pháp là các loại vật liệu dùng để trính bày một tác phẩm Thư Pháp chữ Việt.
Vật liệu trình bày con chữ từ xa xưa đã có rất nhiều như trên xương thú, đá, đồng, cây tre, cây gỗ,… nhưng với Thư pháp người ta đã giới hạn một số loại vật liệu được xem là truyền thống như giấy dó, giấy xuyến chỉ.
Thư Pháp hiện đại gần như không giới hạn ở vấn đề giấy dùng để viết Thư Pháp mà còn thể hiện trên nhiều chất liệu như: thủy tinh, sành, sứ, sơn mài, gỗ, giấy mỹ thuật, …


 
MỰC THƯ PHÁP(Chất liệu hổ trợ)
Định nghĩa: Mực là loại chất lỏng dùng để thể hiện con chữ trong Thư Pháp.
Thư Pháp Châu Âu (nghệ thuật viết chữ) vẫn mặn mà với mực dành riêng cho bút sắt cổ điển và trong sáng tác vẫn có những phụ hõa bằng nghệ thuật sắp đặt và tạo thị giác cho con chữ. Sự phong phú trong mỹ thuật giúp các tác phẩm thăng hoa hơn cả về kỹ thuật lẩn nghệ thuật trong từng tác phẩm.
Thư Pháp hiện nay  hầu như không nhất thiết phụ thuộc vào mực tàu mà còn nhiều loại chất liệu khác như màu nước, màu acrilit, sơn…để tạo thêm hiệu ứng khác nhau trên bề mặt vật liệu khác nhau.
Ngoài ra Thư Pháp chữ Việt hiện đại còn ứng dụng đến các loại cơ điện trong bút điện, lúc ấy mực không phụ thuộc vào hình thức mà chỉ là ý thức. Trong quá trình hình thành rất ngắn ngủi của bộ môn Thư Pháp chữ Việt dù rất nhiều cam go nhưng việc hình thành và sáng tạo tác phẩm vẫn không vì thế mà chậm tiến, đôi khi những sáng tạo mới trên con đường nghệ thuật thăng hoa con chữ giúp chúng ta lý giải vì sao tôi yêu thích cái lung linh trong từng con chữ Việt. Mực một phần giúp cho chúng ta cảm nhận cái khác biệt đó giữa truyền thống và hiện đại.
 

Biên soạn: DƯƠNG MINH HOÀNG 

CHƯƠNG 2: THƯ PHÁP CHỮ VIỆT

PHẦN1.THƯ PHÁP VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI (XƯA VÀ NAY)

* Nghệ thuật Thư Pháp chữ Hán, Nôm_ Việt Nam
+) Quá trình hình thành Thư Pháp chữ Hán ở Việt Nam.
Việt Nam và Trung Hoa có vị trí địa lý giao lưu những nét truyền thống lâu đời, qua tiếp xúc văn hóa ngôn ngữ thì những giao lưu này rõ ràng nhất là văn hóa dùng Hán tự tại Việt Nam qua các tư liệu lịch sử cổ được lưu giữ cho đến nay.
Hệ tư tưởng văn hóa ấy đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến tôn giáo,văn chương, lịch sử, giáo dục,… của nước ta. Qua đó cho thấy Việt Nam có một thời kỳ phát triển cực thịnh về Hán tự nói chung và nghệ thuật Thư pháp chữ Hán nói riêng.
+) Quá trình hình thành chữ Nôm:
Chữ Nôm được hình thành từ thế kỷ IX đến thế kỳ X đã hoàn chỉnh dần vào các thế kỷ sau.
“Xu thế tách rời âm Hán gốc ở Việt Nam không chỉ là kết quả của sự độc lập trong văn hóa người Việt, mà còn là tiền đề cho sự ra đời của hệ thống chữ mới ở Việt Nam”. Thành tựu đáng kể tiếp nối của chữ Nôm ra đời là các thể loại thi ca văn chương hình thành khởi tạo một nét a mới cho nền văn hóa đặc trưng của dân tộc từ thế kỷ IX đến thế kỷ XVIII. Một số thành tựu lớn ra đời  như Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập của nhiều tác giả đời Lê Thánh Tông, Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn,…

+) Đặc điểm Thư Pháp chữ Hán _Việt nam.
Thư Pháp chữ Hán ở Việt Nam xuất hiện từ bao giờ? Thắc mắc này vẫn chưa được giới chuyên môn xác định mà chỉ thừa nhận bằng một số di sản Thư Pháp chữ Hán qua di bút của những người Việt thời xưa, được lưu giữ cho đến nay là một minh chứng rất sinh động của chữ Hán tại Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, chế độ khoa cử ở nước ta kết thúc(1919), kéo theo đó là sự suy tàn của Thư Pháp Hán tự. Nhưng cho đến nay những mạch ngầm nho học ấy vẫn âm thầm truyền tải trong tri thức dẫn đến việc hình thành các Câu Lạc Bộ Thư Pháp chữ Hán, như: CLB Thư Họa Thăng Long sau này trở thành CLB UNESCO Thư Pháp Việt Nam(Hà Nội), đại học KHXHNV Hà Nội, CLB Thư Pháp Huế, CLB Thư Pháp Đà Nẵng, tại Thành Phố Hồ Chí Minh Thư Pháp chữ Hán được giới nghệ sĩ người Hoa chú trọng và phát triển tại CLB Mỹ Thuật Người Hoa quận 5.
 Nhiều nhân tài Thư Pháp khẳng định tên tuổi trong giới Thư pháp như cụ Thanh Hoằng Khê Lê Xuân Hòa, Lỗ Công Lão Nhân Nguyễn Văn Bách, Vĩnh Nguyên lại Cao Nguyện,..(Hà Nội).  Thượng tọa Thích Phước Thành, Nhuận Đức,…(Huế), Trương Lộ, Trương Hán Minh, Lý Khắc Nhu,…(Thành Phố Hồ Chí Minh), ngoài ra còn có những tay bút trẻ như Nguyễn Quang Thắng, Đinh Văn Hiếu, Xuân Như, Lê Quốc Việt…                 
Thư Pháp Hán Nôm do ảnh hướng tính chất bình dị mộc mạc của người Việt nên hình thành và phát triển có tính chất tài tử, lãng mạng.
Sự  phát triển của loại hình nghệ thuật này cũng tương tự như hướng phát triển Thư Pháp Trung Hoa: đều xuất phát trừ sự cảm thụ trong sáng tác qua những đề tài căn bản. Tuy nhiên tính biểu hiện mỹ cảm và ngẫu hứng sáng tác có những điểm tương đối khác biệt so với nghệ thuật Thư Pháp ở Trung Hoa hiện đại.
Thư Pháp chữ  Quốc Ngữ  Việt Nam
+) Đôi nét về quá trình hình thành chữ Quốc Ngữ.
Đến thế kỷ XVII để thuận lợi cho việc truyển bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam. Các giáo sĩ người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cùng sự giúp đỡ của các giáo sĩ bản địa đã Latinh hóa chữ viết để thuận lợi cho việc truyền giáo. Đồng thời cũng từ đó tách rời văn hóa chữ viết và văn hóa ngôn ngữ của người Việt ra khỏi tính vuông vức cùng văn hóa Khổng giáo. Quá trình hình thành và dần phát triển hệ thống chữ Latinh mới này do Giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) cùng các giáo sĩ Châu Âu đã giải quyết 2 vấn đề cho việc hình thành hệ thống chữ  Quốc Ngữ hiện nay.
- Thêm dấu phụ cho đúng cách phát âm của người bản địa.
- Cách viết từng tiếng riêng biệt, và liền nét như các chữ Latinh.
+) Sự ra đời của Thư Pháp Việt
Thuật ngữ Thư Pháp Việt một phần chỉ cho mọi người phân biệt giữa chữ Quốc Ngữ (ký tự Latinh) và chữ Hán ở Việt Nam trước đây.
Sự khác biệt giữa nghệ thuật viết chữ đẹp phương Tây cũng vẫn dùng hệ thống ký tự Latinh, thể hiện tinh thần và vẻ mỹ cảm của tác phẩm. Trong Thư Pháp Việt đã  thừa hưởng và kết hơp hài hòa với quan niệm triết lý văn hóa Việt. cùng vẻ đẹp và tính khuôn khổ của hệ thống nghệ thuật viết chữ phương Tây.
 Hướng phát triển cho nghệ thuật Thư Pháp Việt là điều tất yếu cho sự phát triển của chữ Quốc ngữ , trong sáng tác sẽ mang tính mỹ cảm và có những vẻ đẹp rất riêng biệt trong sáng tạo của người Việt thông qua những nghiên cứu học thuật ngày càng phát triển.
*Thư Pháp Việt cũng có hướng phát triển tương tự như các loại hình nghệ thuật có xu hướng học thuật khác.
* Từng bước dần phát triển và manh nha cho những cơ sở học thuật, tính thẩm mỹ, lý luận trong sáng tác và hình thành giới thẩm định cụ thể dành riêng cho bộ môn này.

PHẦN 2. NHỮNG THÀNH TỰ TRONG NGHỆ THUẬT THƯ PHÁP VIỆT
* Chuyên môn:
- Các lớp dạy Thư pháp Việt ngày càng được phổ biến nhân rộng và chuyên môn hóa, loại hình nghệ thuật này dần dần được công chúng đón nhận và phổ thông hóa chuyên môn giảng dạy một cách sư phạm hơn tại các Trung Tâm Văn Hóa và các CLB Thư Pháp trên cả nước.

* Nghiên cứu: Đã có rất nhiều các học giả sưu tầm đối chiếu nghiên cứu từ văn hóa, đặc tính hội họa và kỹ thuật của Thư pháp ở nhiều cấp độ trong suốt 20 năm qua. Tiêu biểu là các tác giả Kiều Văn Tiến (Quốc ngữ kỳ quan 1974, Nghệ thuật viết chữ 1990, Kỳ Quan chữ Việt Nhà Xuất Bản Văn Hóa Dân Tộc 1999, Thư pháp sự kỳ diệu của chữ viết Việt Nam hiện đại/ Nhà Xuất Bản Văn Hóa Dân Tộc.), Nguyễn Bá Hoàn (Căn bản nghệ thuật Thư Pháp/ Nhà Xuất bản Thuận Hóa 2002, Phút thư giãn cho người bận rộn qua Thư pháp/ Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin 2003, …), Đăng Học (Thư pháp Việt Lý thuyết và thực hành/ Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2009), Đặc biệt là Quyển sách “Thư pháp là gì?” Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2006, tác giả Thạc sĩ Nguyễn Hiếu Tín.

* Kỷ lục:  Dù là loại hình nghệ thuật mới nhưng con chữ đã một phần nào đó góp phần cho nét đẹp trong văn hóa Việt Nam với những kỷ lục đáng kể:
+  Cuốn truyện Kiều bằng Thư Pháp Quốc Ngữ lớn nhất Việt Nam, với kích thước 1,2x1,6m nặng 75kg do nhà Thư Pháp Nguyệt Đình thực hiện tại lễ hội Festival Huế-2002.
+ Đại Thư Pháp Nhật Ký Trong Tù. Khổ sách 0,5x1m, nặng 40kg, được ra mắt nhân kỷ niệm ngày sinh nhật Bác (19/05/2003) ở thị xã Tuy Hòa tỉnh Phú Yên do nghệ nhân Trần Quốc Ẩn thực hiện. Sau đó được ra mắt tại hội sách Tp.Hồ Chí Minh năm 2004.
+ Câu đối dài nhất Việt Nam,  kích thước 2,4x30m thực hiện nhân kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, do nghệ nhân Trần Quốc Ẩn  phóng bút. (2005)
+ Cuốn Thư Pháp Kiều dài nhất, 3254 câu được thể hiện trên giấy với khổ giấy dài  300m,  rộng 8,4m.
+ Cuốn Thư Pháp Tuyên Ngôn Độc Lập bằng gỗ nặng 300Kg (nội dung là 3 bài tuyên ngôn độc lập qua các thời kỳ), bài Thơ Thần của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi và Bản Tuyên Ngôn Độc Lập 02/09/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Kỷ lục cuốn kinh Phật Giáo lớn nhất Việt Nam do 108 nhà Thư Pháp, nghệ sĩ, tăng lữ thực hiện được trưng bày tại phòng triển lãm Lê Thánh Tôn năm 2007.
* Tương lai:
-Hiện nay Thư Pháp chữ Việt không chỉ dừng lại ở cấp độ phong trào mà còn phát triển có quy mô tại các CLB trong cả nước, với thành phần những người yêu thích không ngừng sáng tạo ra những tác phẩm Thư Pháp Việt cho cuộc sống và nhận được sự đón nhận rất đồng tình của công chúng mang đến cho loại hình nghệ thuật này  “hồn con chữ” nét văn hóa đậm đà màu sắc Việt
-Tương lai không xa sự chắt lọc trong bộ môn và có những hướng lý luận và kỹ thuật thống nhất dần đưa loại hình nghệ thuật này thành một nét văn hóa dân tộc Việt Nam.
- Cần hơn nữa sự quan tâm đến hệ thống kỹ thuật căn bản và lý luận sáng tác cảm thụ tác phẩm, nhằm đưa ra định hướng phát triển chung cho loại hình nghệ thuật này.
- Việc ảnh hưởng chung và phát triển cùng với một số loại hình nghệ thuật khác như hội họa, kiến trúc,… cần được phát huy và sáng tạo hình thành những trường phái và đưa ra các cơ sở lý luận phê bình để phát triển hơn nữa tính chuyên môn của loại hình nghệ thuật này. 

Biên Soạn: thư pháp Minh Hoàng

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THƯ PHÁP



1.1 Sự hình thành chữ viết của loài người
Cùng với  ngôn ngữ, chữ viết đã tạo nên một hệ thống giao tiếp hoàn hảo của nhân loại. Thuật ngữ “chữ viết” chỉ là hệ thống kí hiệu để ghi lại ngôn ngữ. Ngôn ngữ đã ra đời rất lâu nhưng mãi cho đến giai đoạn phát triển cao trong xã hội mới hình thành chữ viết phục vụ cho xã hội loài người.

1.2 Nghệ thuật viết chữ
Chữ viết là sáng tạo kì diệu của con người.
Chữ viết ra đời do nhu cầu cần thiết của xã hội, xa xưa chữ viết là những hình ảnh mang tính tượng hình hoặc tượng ý.
Cái đẹp trong chữ viết mà theo cách nói hiện đại là nghệ thuật viết chữ đẹp (Calligraphy_calligraphie-kalligraphiia), từ rất lâu các nước đã xem trọng và xem nó như một loại hình nghệ thuật “cao cấp”, là một trong những biểu tượng có thẩm mỹ của nền văn hóa dân tộc ở một số nước phương Đông.

1.3 Nghệ thuật viết chữ và thư pháp
Nghệ thuật luôn bắt đầu từ thực tế đời sống đó là sự chắt lọc cái đẹp. Qua ngôn ngữ chúng ta cũng có những sự cảm nhận ấy thông qua nghệ thuật Thư Pháp.
Thư Pháp là nghệ thuật trình bày con chữ  có tính chất mỹ cảm và cơ sở mỹ học có sự gắn bó chặt chẽ liền mạch với nội dung tác phẩm.
Ta có thể hiểu Thư Pháp là nghệ thuật thể hiện chữ viết và là phương tiện bày tỏ tâm thức của con người. Với ý nghĩa đó Thư Pháp có thể xem như nghệ thuật biểu đạt mỹ cảm của mỗi dân tộc, ý tưởng, tâm tư, tình cảm chủ quan, có tác dụng đạo đức và giá trị mỹ học cao.
     
Các sáng tác Thư pháp trên thế giới


Sơ lược Thư Pháp Đông Tây: Trong dòng chảy văn hóa truyền thống của các nước phương Đông- thư pháp được xem như là một mạch ngầm lặng lẽ tồn tại với thời gian nhưng lại có một vị trí rất đáng kể ẩn chứa nhiều giá trị tinh thần, đạo đức trong thế giới nghệ thuật.

Thư  Pháp Trung Quốc:
Thư Pháp chính là linh hồn của mỹ thuật Trung Hoa
Loại hình nghệ thuật có tính tổng hợp cao có xu hướng vươn đến nghệ thuật biểu hiện tâm hồn trong sáng tác và cảm nhận chủ quan. Qua Thư pháp dân tộc Trung Hoa còn sáng tạo nên rất nhiều loại hình nghệ thuật khác như vẽ tranh thủy mặc, võ thuật, kiến trúc,… thông qua các hệ thống căn bản về lý luận và đường nét đã cung cấp cho những loại hình nghệ thuật này mang đậm nét thẩm mỹ trong văn hóa Trung Hoa.
Thư pháp Trung Hoa tôn trọng tính nguyên tắc trong mô phạm truyền thống và thể hiện sự nhịp nhàng trong sáng tác con chữ qua các thời đại.
Từ ngàn năm trước, khi con chữ được hình thành, các thể loại thư pháp gần như được luyện tập với các bút pháp không thay đổi và lại được truyền thừa qua các nhà Thư pháp danh gia. Nổi tiếng nhất là bút pháp họ Vương đời Ngụy Tấn thế kỷ thứ 03, Vương Hy Chi được truyền tụng là thánh thư của Thư pháp trung hoa đã truyền lại cho con mình là Vương Hiến Chi mãi đến bảy đời sau; Trí Vĩnh vẫn theo phương pháp ấy mà luyện tập qua các đời Ngũ Hồ thập lục quốc, nam Bắc triều, nhà Tùy, nhà Đường, Ngũ đại thập quốc, Tống, Nguyên, Minh, Thanh,…vẫn còn rất nhiều người luyện tập theo bút pháp họ Vương.
Trải qua bao thăng trầm của dòng chảy nghệ thuật, thư pháp Trung Hoa vẫn tiếp tục phát huy những giá trị truyền thông đồng thời sáng tạo hơn nữa dòng thư pháp Tiền vệ trong xã hội hiện đại.

Thư pháp Vương Hy Chi


Thư Pháp Nhật Bản:
Nhật bản họ gọi là Thư Đạo (shodo).
Vị tổ khai sáng cho loại hình nghệ thuật này được ghi nhận là Kobo-Daishi(774-835). Vị tăng này có bút danh là Kukai (Không Hải). Ngoài ra còn có Ono no Michi Kaze (896-996) là những vị tổ sư của bộ môn Thư pháp tại Nhật Bản.
Mỗi khi nhắc đến Thư Pháp có thể xem ở Nhật Bản là nơi khai sinh ra dòng thư pháp nghệ thuật có khiếu thẩm mỹ và luôn dựa vào sự giản dị cùng với tính trầm tư mặc tưởng của Thiền Đạo. Điều này đã tiếp nguồn cho nghệ thuật Thư Pháp phát triển thành một phong cách rất đặc biệt, đó là sự kết hợp hài hòa giữa tinh thần Thiền Đạo và nghệ thuật thể hiện.
Với ý nghĩa này, Thư Đạo không chỉ là môn nghệ thuật thể hiện, mà nó vượt ra ngoài hạn lượng của ý thức để truyền tải nội dung tâm pháp.
Thông qua đó mặc dù đã là những sự xác định của loại hình nghệ thuật mang đậm nét đơn giản và tinh tế, thế nhưng đâu đó trong mỗi sáng tác của Thư pháp Nhật Bản dòng chảy của cuộc sống lại là sự kết hợp và phát huy song song nhiều loại hình nghệ thuật cùng một lúc nhằm phát triển cho thế giới nghệ thuật môi trường sáng tạo mới.
   


Thư Pháp các nước Hồi giáo:
Thư pháp Ả rập xuất hiện vào thế kỷ thứ 03, khi Mohamet (570-633) sáng lập Đạo Hồi(Islam).Qua nghiên cứu kinh Koran là quyển kinh đầu tiên viết bằng tiếng Ả rập, nó đóng vai trò trung tâm cho việc phát triển và đưa chữ Ả rập tiền đến nghệ thuật Thư pháp.
Nghệ thuật thị giác hàng đầu. Nó trở thành một phần chính thức cho tính thẩm mỹ và nghệ thuật trang trí của đạo Hồi, ta có thể thấy các hoa văn họa tiết trên các lâu đài, đền thờ, trường học,… đấy chính là sự sáng tạo riêng biệt và độc đáo của nghệ thuật Thư pháp Ả rập. Ibn al-Habib cho rằng nghệ thuật viết chữ chính là chức năng cao quý nhất, một môn khoa học ưu việt nhất, một nghề có thu hoạch lớn nhất của thời đại.
Đến nay, hầu như các nhà thư pháp Ả rập không thỉ thể hiện con chữ dựa trên phương pháp truyền thống mà còn có sự kết hợp giữa mỹ học hiện đại với nội tâm phong phú thông qua các màu sắc, đường nét thể hiện trên mỗi tác phẩm.
    

Nghệ thuật Thư Pháp phương Tây:
Từ những năm 600 trước công nguyên, các con chữ đã được hình thành và phát triển gần như hoàn chỉnh và phong phú từ các con chữ Lapidari, Romanh, Rotich, Bata, Chancery (chữ thảo viết nghiêng), chữ tròn,… các con chữ trở nên khá bắt mắt và đặc sắc.
Thời xa xưa, khi nghề in chưa có, các văn kiện quan trọng hay các tác phẩm thiêng liêng đều được các nhà Thư pháp nắn nót, trau chuốt qua từng nét chữ. Đặc biệt trong những trang sách kinh , các nhà thư pháp rất chú ý, quan tâm khi hoàn thành những trang sách ấy như những tác phẩm nghệ thuật. Cho đến nay, những tuyệt tác ấy vẫn còn được bảo tồn như tài sản văn hóa vô giá tại các viện bảo tàng tên tuổi trên tế giới.
Với hệ thống chữ viết latinh, các nước phương Tây vẫn có một số thuật ngữ như calligraphie(Pháp), calligraphy(Anh) nhằm khẳng định đây là loại hình nghệ thuật viết chữ đẹp.
Các con chữ qua hệ thống thẩm mỹ gắn liền với hội họa cả đương đại lẫn cổ điển. Vì thế các con chữ luôn mang tính tỷ lệ, khuôn khổ và nắn nót.
Do đặc tính khoa học mà nghệ thuật viết chữ phương Tây mang đậm tính chất kế thừa, hệ thống và nối tiếp nhau qua sự sáng tạo không ngừng của sự phát triển dần hoàn thiện trong các thể loại của hội họa. Châu âu là nơi mà loại hình nghệ thuật này được nhìn nhận, nghiên cứu rất khoa học và phát triển thành một loại hình nghệ thuật cho đến nay.
         
 Nghệ thuật Thư Pháp Việt Nam:
Sự giao thoa trong văn hóa đồng văn tự chữ hán làm nghệ thuật Thư Pháp Việt Nam  phát triển song hành với Trung Hoa khoảng hơn 2000 năm ở khu vực phía Bắc cho đến nay vẫn còn mang đậm nét Thư Pháp Hán Văn.
Mãi cho đến khi hình thành và phát triển chữ Nôm văn hóa Việt như khởi sắc và hình thành nhiều nét văn hóa văn chương đặc sắc, độc đáo rất riêng biệt so với văn hóa Hán tự từ rất lâu đời đã tồn tại.
Đặc tính nghệ thuật chữ Hán và chữ Nôm dựa trên nền tảng của hệ thống văn hóa chữ Hán, do đó nó mang đậm tính chất tiêu biểu cùa Thư pháp Trung hoa trong tính truyền thừa, nguyên tắc mô phạm trong truyền thống giảng dạy.
Đến khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, dần hình thành hệ thống chữ Việt hiện đại (chữ Quốc Ngữ hiện nay). Manh nha sáng tác trong giới văn nghệ sỹ với tính biểu cảm trữ tình trong con chữ, cộng với nét tài hoa trong sự ứng dụng linh hoạt qua cây cọ tàu, bút gỗ. Dù đôi lúc sáng tác vẫn còn mang đậm nét hoài cổ của một thời Hán Nôm vốn đã tồn tại lâu đời.
Đặc điểm của nghệ thuật viết chữ Quốc ngữ hiện đại lại đang dần hình thành và hoàn chỉnh các phương pháp và yếu tố tổng hợp, hình thành kỹ thuật viết chữ, lý luận, tính sư phạm cho loại hình nghệ thuật Thư pháp Việt.

        

  






*) So sánh sự khác nhau cơ bản giữ nghệ thuật Thư Pháp Đông Tây (mang tính khai quát) có thể tóm lược ở bảng sau:

Tiêu chí
NGHỆ THUẬT THƯ PHÁP PHƯƠNG ĐÔNG

NGHỆ THUẬT VIẾT CHỮ PHƯƠNG TÂY
Phương tiện viết
Bút lông, mực tàu, giấy thấm nước
Bút sắt, bút nhọn, eke, thước, giấy mỹ thuật.

Hình thức viết
Linh hoạt, bay bướm, ít màu sắc, màu trầm lắng.
Nắn nót, nguyên tắc, tỷ lệ, nhiều màu sắc, sặc sở.

Mục đích
Thư giãn, thú tiêu khiển, giáo dục, pháp môn.
Ứng dụng thực tế, minh họa sách, trang trí đồ họa.

Bản chất
Thiên về tinh thần
(Chú trọng nội dung, “hồn” của chữ)
Mang tính ước lệ, trừu tượng.
- Tâm linh
Thiên về vật chất
(Chú trọng hình thức viết chữ)
Mang tính rõ ràng, tỷ lệ chính xác.
- Khoa học

 * Bảng so sánh được trích nguồn “Thư pháp là gì?” Ths.Nguyễn Hiếu Tín , t.206.

Biên soạn: thư pháp Minh Hoàng