1.1 Sự hình thành chữ viết của loài người
Cùng với ngôn ngữ, chữ viết đã tạo nên một hệ thống giao tiếp hoàn hảo của nhân loại. Thuật ngữ “chữ viết” chỉ là hệ thống kí hiệu để ghi lại ngôn ngữ. Ngôn ngữ đã ra đời rất lâu nhưng mãi cho đến giai đoạn phát triển cao trong xã hội mới hình thành chữ viết phục vụ cho xã hội loài người.
1.2 Nghệ thuật viết chữ
Chữ viết là sáng tạo kì diệu của con người.
Chữ viết ra đời do nhu cầu cần thiết của xã hội, xa xưa chữ viết là những hình ảnh mang tính tượng hình hoặc tượng ý.
Cái đẹp trong chữ viết mà theo cách nói hiện đại là nghệ thuật viết chữ đẹp (Calligraphy_calligraphie-kalligraphiia), từ rất lâu các nước đã xem trọng và xem nó như một loại hình nghệ thuật “cao cấp”, là một trong những biểu tượng có thẩm mỹ của nền văn hóa dân tộc ở một số nước phương Đông.
1.3 Nghệ thuật viết chữ và thư pháp
Nghệ thuật luôn bắt đầu từ thực tế đời sống đó là sự chắt lọc cái đẹp. Qua ngôn ngữ chúng ta cũng có những sự cảm nhận ấy thông qua nghệ thuật Thư Pháp.
Thư Pháp là nghệ thuật trình bày con chữ có tính chất mỹ cảm và cơ sở mỹ học có sự gắn bó chặt chẽ liền mạch với nội dung tác phẩm.
Ta có thể hiểu Thư Pháp là nghệ thuật thể hiện chữ viết và là phương tiện bày tỏ tâm thức của con người. Với ý nghĩa đó Thư Pháp có thể xem như nghệ thuật biểu đạt mỹ cảm của mỗi dân tộc, ý tưởng, tâm tư, tình cảm chủ quan, có tác dụng đạo đức và giá trị mỹ học cao.
Sơ lược Thư Pháp Đông Tây: Trong dòng chảy văn hóa truyền thống của các nước phương Đông- thư pháp được xem như là một mạch ngầm lặng lẽ tồn tại với thời gian nhưng lại có một vị trí rất đáng kể ẩn chứa nhiều giá trị tinh thần, đạo đức trong thế giới nghệ thuật.
Thư Pháp Trung Quốc:
Thư Pháp chính là linh hồn của mỹ thuật Trung Hoa
Loại hình nghệ thuật có tính tổng hợp cao có xu hướng vươn đến nghệ thuật biểu hiện tâm hồn trong sáng tác và cảm nhận chủ quan. Qua Thư pháp dân tộc Trung Hoa còn sáng tạo nên rất nhiều loại hình nghệ thuật khác như vẽ tranh thủy mặc, võ thuật, kiến trúc,… thông qua các hệ thống căn bản về lý luận và đường nét đã cung cấp cho những loại hình nghệ thuật này mang đậm nét thẩm mỹ trong văn hóa Trung Hoa.
Thư pháp Trung Hoa tôn trọng tính nguyên tắc trong mô phạm truyền thống và thể hiện sự nhịp nhàng trong sáng tác con chữ qua các thời đại.
Từ ngàn năm trước, khi con chữ được hình thành, các thể loại thư pháp gần như được luyện tập với các bút pháp không thay đổi và lại được truyền thừa qua các nhà Thư pháp danh gia. Nổi tiếng nhất là bút pháp họ Vương đời Ngụy Tấn thế kỷ thứ 03, Vương Hy Chi được truyền tụng là thánh thư của Thư pháp trung hoa đã truyền lại cho con mình là Vương Hiến Chi mãi đến bảy đời sau; Trí Vĩnh vẫn theo phương pháp ấy mà luyện tập qua các đời Ngũ Hồ thập lục quốc, nam Bắc triều, nhà Tùy, nhà Đường, Ngũ đại thập quốc, Tống, Nguyên, Minh, Thanh,…vẫn còn rất nhiều người luyện tập theo bút pháp họ Vương.
Trải qua bao thăng trầm của dòng chảy nghệ thuật, thư pháp Trung Hoa vẫn tiếp tục phát huy những giá trị truyền thông đồng thời sáng tạo hơn nữa dòng thư pháp Tiền vệ trong xã hội hiện đại.

Thư pháp Vương Hy Chi
Thư Pháp Nhật Bản:
Nhật bản họ gọi là Thư Đạo (shodo).
Vị tổ khai sáng cho loại hình nghệ thuật này được ghi nhận là Kobo-Daishi(774-835). Vị tăng này có bút danh là Kukai (Không Hải). Ngoài ra còn có Ono no Michi Kaze (896-996) là những vị tổ sư của bộ môn Thư pháp tại Nhật Bản.
Mỗi khi nhắc đến Thư Pháp có thể xem ở Nhật Bản là nơi khai sinh ra dòng thư pháp nghệ thuật có khiếu thẩm mỹ và luôn dựa vào sự giản dị cùng với tính trầm tư mặc tưởng của Thiền Đạo. Điều này đã tiếp nguồn cho nghệ thuật Thư Pháp phát triển thành một phong cách rất đặc biệt, đó là sự kết hợp hài hòa giữa tinh thần Thiền Đạo và nghệ thuật thể hiện.
Với ý nghĩa này, Thư Đạo không chỉ là môn nghệ thuật thể hiện, mà nó vượt ra ngoài hạn lượng của ý thức để truyền tải nội dung tâm pháp.
Thông qua đó mặc dù đã là những sự xác định của loại hình nghệ thuật mang đậm nét đơn giản và tinh tế, thế nhưng đâu đó trong mỗi sáng tác của Thư pháp Nhật Bản dòng chảy của cuộc sống lại là sự kết hợp và phát huy song song nhiều loại hình nghệ thuật cùng một lúc nhằm phát triển cho thế giới nghệ thuật môi trường sáng tạo mới.
Thư Pháp các nước Hồi giáo:
Thư pháp Ả rập xuất hiện vào thế kỷ thứ 03, khi Mohamet (570-633) sáng lập Đạo Hồi(Islam).Qua nghiên cứu kinh Koran là quyển kinh đầu tiên viết bằng tiếng Ả rập, nó đóng vai trò trung tâm cho việc phát triển và đưa chữ Ả rập tiền đến nghệ thuật Thư pháp.
Nghệ thuật thị giác hàng đầu. Nó trở thành một phần chính thức cho tính thẩm mỹ và nghệ thuật trang trí của đạo Hồi, ta có thể thấy các hoa văn họa tiết trên các lâu đài, đền thờ, trường học,… đấy chính là sự sáng tạo riêng biệt và độc đáo của nghệ thuật Thư pháp Ả rập. Ibn al-Habib cho rằng nghệ thuật viết chữ chính là chức năng cao quý nhất, một môn khoa học ưu việt nhất, một nghề có thu hoạch lớn nhất của thời đại.
Đến nay, hầu như các nhà thư pháp Ả rập không thỉ thể hiện con chữ dựa trên phương pháp truyền thống mà còn có sự kết hợp giữa mỹ học hiện đại với nội tâm phong phú thông qua các màu sắc, đường nét thể hiện trên mỗi tác phẩm.
Nghệ thuật Thư Pháp phương Tây:
Từ những năm 600 trước công nguyên, các con chữ đã được hình thành và phát triển gần như hoàn chỉnh và phong phú từ các con chữ Lapidari, Romanh, Rotich, Bata, Chancery (chữ thảo viết nghiêng), chữ tròn,… các con chữ trở nên khá bắt mắt và đặc sắc.
Thời xa xưa, khi nghề in chưa có, các văn kiện quan trọng hay các tác phẩm thiêng liêng đều được các nhà Thư pháp nắn nót, trau chuốt qua từng nét chữ. Đặc biệt trong những trang sách kinh , các nhà thư pháp rất chú ý, quan tâm khi hoàn thành những trang sách ấy như những tác phẩm nghệ thuật. Cho đến nay, những tuyệt tác ấy vẫn còn được bảo tồn như tài sản văn hóa vô giá tại các viện bảo tàng tên tuổi trên tế giới.
Với hệ thống chữ viết latinh, các nước phương Tây vẫn có một số thuật ngữ như calligraphie(Pháp), calligraphy(Anh) nhằm khẳng định đây là loại hình nghệ thuật viết chữ đẹp.
Các con chữ qua hệ thống thẩm mỹ gắn liền với hội họa cả đương đại lẫn cổ điển. Vì thế các con chữ luôn mang tính tỷ lệ, khuôn khổ và nắn nót.
Do đặc tính khoa học mà nghệ thuật viết chữ phương Tây mang đậm tính chất kế thừa, hệ thống và nối tiếp nhau qua sự sáng tạo không ngừng của sự phát triển dần hoàn thiện trong các thể loại của hội họa. Châu âu là nơi mà loại hình nghệ thuật này được nhìn nhận, nghiên cứu rất khoa học và phát triển thành một loại hình nghệ thuật cho đến nay.
Nghệ thuật Thư Pháp Việt Nam:
Sự giao thoa trong văn hóa đồng văn tự chữ hán làm nghệ thuật Thư Pháp Việt Nam phát triển song hành với Trung Hoa khoảng hơn 2000 năm ở khu vực phía Bắc cho đến nay vẫn còn mang đậm nét Thư Pháp Hán Văn.
Mãi cho đến khi hình thành và phát triển chữ Nôm văn hóa Việt như khởi sắc và hình thành nhiều nét văn hóa văn chương đặc sắc, độc đáo rất riêng biệt so với văn hóa Hán tự từ rất lâu đời đã tồn tại.
Đặc tính nghệ thuật chữ Hán và chữ Nôm dựa trên nền tảng của hệ thống văn hóa chữ Hán, do đó nó mang đậm tính chất tiêu biểu cùa Thư pháp Trung hoa trong tính truyền thừa, nguyên tắc mô phạm trong truyền thống giảng dạy.
Đến khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, dần hình thành hệ thống chữ Việt hiện đại (chữ Quốc Ngữ hiện nay). Manh nha sáng tác trong giới văn nghệ sỹ với tính biểu cảm trữ tình trong con chữ, cộng với nét tài hoa trong sự ứng dụng linh hoạt qua cây cọ tàu, bút gỗ. Dù đôi lúc sáng tác vẫn còn mang đậm nét hoài cổ của một thời Hán Nôm vốn đã tồn tại lâu đời.
Đặc điểm của nghệ thuật viết chữ Quốc ngữ hiện đại lại đang dần hình thành và hoàn chỉnh các phương pháp và yếu tố tổng hợp, hình thành kỹ thuật viết chữ, lý luận, tính sư phạm cho loại hình nghệ thuật Thư pháp Việt.
*) So sánh sự khác nhau cơ bản giữ nghệ thuật Thư Pháp Đông Tây (mang tính khai quát) có thể tóm lược ở bảng sau:
Tiêu chí
|
NGHỆ THUẬT THƯ PHÁP PHƯƠNG ĐÔNG
|
NGHỆ THUẬT VIẾT CHỮ PHƯƠNG TÂY
|
Phương tiện viết
|
Bút lông, mực tàu, giấy thấm nước
|
Bút sắt, bút nhọn, eke, thước, giấy mỹ thuật.
|
Hình thức viết
|
Linh hoạt, bay bướm, ít màu sắc, màu trầm lắng.
|
Nắn nót, nguyên tắc, tỷ lệ, nhiều màu sắc, sặc sở.
|
Mục đích
|
Thư giãn, thú tiêu khiển, giáo dục, pháp môn.
|
Ứng dụng thực tế, minh họa sách, trang trí đồ họa.
|
Bản chất
|
Thiên về tinh thần
(Chú trọng nội dung, “hồn” của chữ)
Mang tính ước lệ, trừu tượng.
- Tâm linh
|
Thiên về vật chất
(Chú trọng hình thức viết chữ)
Mang tính rõ ràng, tỷ lệ chính xác.
- Khoa học
|
* Bảng so sánh được trích nguồn “Thư pháp là gì?” Ths.Nguyễn Hiếu Tín , t.206.
Biên soạn: thư pháp Minh Hoàng